Những hình ảnh dưới đây của nhiếp ảnh gia Pháp Ludovic Crespin thực hiện vào đầu thập niên 1920 ở Sài Gòn sẽ khiến người xem ngỡ ngàng…
Hình chụp dinh Norodom vào năm 1920. Dinh này được xây dựng xong năm 1871, đặt tên theo tên của quốc vương Campuchia lúc đó. Từ năm 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ. Từ 1887 đến 1945, các quan toàn quyền Đông Dương sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên được gọi là Dinh Toàn Quyền. Tuy nhiên dinh chỉ thực sự được toàn quyền Đông Dương sử dụng cho đến năm 1906, trước khi chuyển ra Hà Nội để dùng Phủ Toàn Quyền.
Năm 1955, dinh Norodom đổi tên thành Dinh Độc Lập. Năm 1962, dinh được xây dựng lại và có hình dáng như ngày nay.
Bên trên tấm hình này là 2 toàn quyền của Đông Dương: Bên trái là Albert Sarraut (nhiệm kỳ 1911-1913). Ông này cũng từng làm thủ tướng Pháp năm 1933. Bên phải là Maurice Long (nhiệm kỳ 1920-1922).
Nhà hát Thành Phố Sài Gòn được chụp vào thập niên 1920. Nhà hát này được xây năm 1898 và khánh thành năm 1900. Từ 1955 đến 1975, nơi này từng là trụ sở của Quốc Hội và Hạ Nghị Viện.
Mặt trước của Nhà Hát là con đường Catinat. Phía bên phải là Hotel Continental, khách sạn đầu tiên của xứ Nam kỳ. Năm 1955, đường này đổi tên thành đường Tự Do, và năm 1976 trở thành đường Đồng Khởi.
Quảng trường trước nhà hát là đại lộ Bonnard. Từ năm 1955 đến nay, đại lộ này đổi tên thành Lê Lợi, quảng trường này được đặt tên là Công Trường Lam Sơn, cái tên gắn liền với nhân vật lịch sử Lê Lợi.
Quảng trường trước nhà hát nhìn từ phía Dinh Xã Tây (Tòa Đô Chánh)
Mặt sau của Nhà Thờ Đức Bà được chụp vào khoảng thập niên 1920. Công trình tôn giáo nổi tiếng này vẫn giữ nguyên kiến trúc cho đến ngày nay, sau 140 năm.
Mặt trước của Nhà Thờ Đức Bà
Góc ngã tư Channer – Bonnard, trước Dinh Xã Tây (Tức Tòa Đô Chánh sau này). Đây là giao lộ sầm uất nhất của Sài Gòn kể từ khi người Pháp xây dựng các tuyến đường trung tâm Saigon cho đến ngày nay. Kể từ 1955, giao lộ này là Nguyễn Huệ – Lê Lợi.
Trên vườn hoa trước nhà thờ, đối diện Bưu Điện là tượng đồng của Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) được đúc ở bên Pháp. Bên dưới tượng đài là bệ hình trụ bằng đá hoa cương màu đỏ. Năm 1945, tượng này tháo dỡ đưa về Pháp. Đến năm 1958, vị trí này được thay bằng bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý như hiện nay.
Dinh Xã Tây được xây dựng xong năm 1909. Có thể thấy trước tòa nhà ghi chữ Hotel de Ville, dịch sang tiếng Anh có nghĩa là City Hall, trong tiếng Việt gọi là Tòa Thị Chính. Thời VNCH thì dinh này được gọi là Tòa Đô Chánh, hiện nay là trụ sở UBND thành phố. Thiết kế của tòa nhà này được mô phỏng theo kiểu những lầu chuông ở miền Bắc nước Pháp.
Hình này là đầu đường Catinat (sau này là đường Tự Do, hiện nay là đường Đồng Khởi) những năm đầu 1920. Bên trái hình là Hotel Annam (Nam Việt khách lầu) của ông Huỳnh Huệ Ký ở số 1 Catinat. Sát vị trí này là 2 tiệm đổi tiền của người Ấn. Đến năm 1925, khách sạn này bị đập bỏ và xây thành khách sạn 5 sao Majestic. Khách sạn Majestic nhiều lần nâng cấp và còn tồn tại đến ngày nay.
Bên phải hình là quán cafe La Rotonde ở địa chỉ số 2 Catinat. Ngày nay vị trí này là Runam Bistro. Bên phải tấm hình là đường Quai de Belgique, nay là Tôn Đức Thắng, dọc bến Bạch Đằng.
Một góc ảnh rộng hơn của phía đầu đường Catinat, nhìn thấy được con đường Quai de Belgique với đường ray tàu hỏa chạy hơi nước tuyến Sài Gòn – Chợ Lớn.
Dọc sông Sài Gòn, phía xa là Cầu Quay Khánh Hội, người Pháp gọi là Le pont tournant, nghĩa là cầu quay. Tên gọi này dựa theo thiết kế độc đáo – khi cầu có thể quay khúc giữa vào giờ nhất định trong ngày để mở đường cho tàu thuyền qua lại dễ dàng. Con đường bên trái hình sau này được đặt tên là Bến Chương Dương, hiện nay mang tên Võ Văn Kiệt.
Chợ Bến Thành năm 1920. Ngôi chợ này được xây khoảng năm 1911 và giữ nguyên kiến trúc cơ bản cho đến ngày nay.
Toàn cảnh Chợ Bến Thành
Bến Bạch Đằng năm 1920, phía xa là Thương Cảng Sài Gòn (thành lập năm 1860). Vị trí này đến nay nằm ở đoạn đầu đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ.
Tòa nhà này nằm ở một vị trí đầy biến động. Ở vị trí này ngày nay là tòa nhà Sunwah ở số 115 Nguyễn Huệ.
Thời Pháp, tòa nhà này được gọi là “Tòa Tạp Tụng” trên đường Charner, người Pháp gọi là La Justice de Paix, đến năm 1955 đổi tên là “Tòa Hòa Giải” đường Nguyễn Huệ. Trước đó, vị trí này là 1 nhà thờ bằng gỗ, tiền thân của Nhà Thờ Đức Bà hiện nay.
Năm 1863, tại vị trí này, linh mục Lefebvre đã động thổ xây dựng nhà thờ bằng gỗ, hoàn thành vào năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Sài Gòn.
Đến năm 1876, do Nhà thờ Sài Gòn làm bằng gỗ tạp nên sớm hư hại, Thống đốc Nam kỳ là Guy Victor August Duperré quyết định tổ chức thi thiết kế mẫu Nhà thờ Sài Gòn mới đặt ở 1 vị trí khác. Cuối cùng kiến trúc sư J.Bourad đã được chọn, và đó cũng là hình dáng của Nhà thờ Đức Bà ngày nay.
Còn vị trị Nhà thờ cũ xây một tòa án vào năm 1880, có hình dáng như hình bên trên cho đến năm 1995 thì bị phá bỏ để xây dựng tòa nhà Sunwah như ngày nay, là nhà cao nhất Việt Nam thời điểm đó.
Sông Sài Gòn năm 1920. Bên tay phải là Thương Cảng Sài Gòn
Cầu Mống được xây dựng vào năm 1894 và được giữ nguyên hình dạng cho đến ngày nay.
Cầu do Công ty vận chuyển hàng hải Messageries Maritimes của Pháp bỏ vốn xây dựng, dài 128 mét, rộng 5,2 mét, lề bộ hành rộng 0,5 mét, xây bằng thép kiên cố. Cầu làm theo kiểu vòng mống cho nên dân gian gọi là cầu Mống.
Trong giai đoạn thi công Đại lộ Đông – Tây và Đường hầm sông Sài Gòn, cầu Mống được tháo dỡ hoàn toàn, sau khi công trình này hoàn tất thì cầu Mống đã được lắp ghép lại theo nguyên bản và gia cố thêm phần trụ móng kèm trang bị chiếu sáng mỹ thuật.
Chợ cá ở Chợ Lớn thập niên 1920. Vị trí này ngày nay là Bưu Điện Chợ Lớn
Cầu 3 cẳng ở Chợ Lớn. bắc qua một cái Vàm (Ngã ba kinh rạch) của kinh Hàng Bàng, do quan Khâm Sai người Pháp ra lệnh xây dựng. Cầu có tên tiếng Pháp là “Pont des 3 arches” (cầu có 3 nhịp vòng).
Nhà văn Trương Đạm Thủy viết về cầu như sau: “Ở vùng quận 6, Chợ Lớn cách đây mấy mươi năm có một cây cầu bằng sắt, hình dạng rất lạ, có ba chân. Vì cầu chẳng có cái tên chính thức nào như cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận… nên người dân lấy hình mã đặt tên, tức cầu Ba Cẳng.”
Cầu đã bị sập hồi năm 1990. Ngày nay, vị trí cầu này ở chỗ nối 3 đường Phan Văn Khỏe, Bến Bãi Sậy và Trịnh Hoài Đức.
Xưởng đóng tàu Ba Son đang hạ thủy chiếc tàu chở hàng mang tên Albert Sauraut dài 85m năm 1921. Đó là tên của 1 Toàn quyền Đông Dương nhiệm kỳ 1911-1913.
Tòa nhà này gắn liền với lịch sử Sài Gòn và đã tồn tại được tròn 130 năm với hình dáng được giữ nguyên như lúc mới khánh thành. Trong 130 năm qua, tòa nhà này trải qua nhiều biến động và đã có hàng trăm chủ nhân sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.
Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1885 và hoàn thành năm 1890 theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Alfred Foulhoux với mục đích sử dụng làm Bảo tàng Thương mại để trưng bày sản phẩm Nam Kỳ. Tuy nhiên, ngay sau khi xây xong, tòa nhà lại được Phó Toàn quyền Đông Dương Henri Éloi Danel dùng làm tư dinh. Về sau, tòa nhà được sử dụng hẳn làm dinh Phó Toàn quyền Đông Dương hay còn gọi là dinh Phó soái (trước năm 1911). Sau ông Danel, các vị Phó Toàn quyền người Pháp thay nhau tiếp tục làm chủ Dinh. Từ năm 1892 đến năm 1911, đã có thêm tất cả 14 vị Phó Toàn Quyền khác (trong số 14 vị này có một số vị đảm nhiệm chức vụ này 2 hay 3 lần) cư ngụ trong Dinh.
Từ năm 1912, chính phủ Pháp bỏ chức vụ Phó Toàn Quyền Ðông Dương và thay bằng chức vụ Thống Ðốc Nam Kỳ. Từ 1912 cho đến ngày 9-3-1945 đã có thêm tất cả 16 vị Thống Ðốc Nam Kỳ sống và làm việc trong Dinh Gia Long. Năm 1945, dinh Thống đốc nhiều lần đổi chủ. Sau khi quân Nhật nắm quyền tại Đông Dương, vị thống đốc người Nhật là Yoshio Minoda sử dụng tòa nhà làm dinh thự.
Ngày 14 tháng 8, người Nhật giao lại dinh thự cho chính quyền Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam để làm dinh Khâm sai Đại thần Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm.
Đến ngày 25 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền, dinh lại trở thành trụ sở Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, rồi của Ủy ban Nhân dân Nam Bộ.
Ngày 10 tháng 9, Trung tá B. W Roe (phái bộ quân sự Anh) chiếm dinh làm trụ sở Phái bộ Đồng minh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam Bộ phải dời về dinh Đốc lý.
Đến ngày 5 tháng 10, dinh được tướng Leclerc dùng làm Phủ Cao ủy Cộng hòa Pháp tạm thời. Sau khi Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Đông Dương là Đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu chọn dinh Norodom làm Phủ Cao ủy, thì dinh lại trở thành nơi làm việc của tướng Leclerc, nhưng lần này với danh nghĩa chính thức là trụ sở của Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt Nam.
Sau khi tái chiếm Đông Dương, ngày 23 tháng 5 năm 1947, chính quyền Pháp đã bàn giao dinh cho Thủ tướng Lê Văn Hoạch để làm trụ sở chính phủ Nam kỳ quốc. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được thành lập và dinh được sau đó chuyển thành dinh Tổng trấn (sau đổi thành Thủ hiến) Nam phần dưới quyền sử dụng của Thủ hiến Trần Văn Hữu.
Sau Hiệp định Genève, tổng thống Ngô Đình Diệm về Sài Gòn nhận chức thủ tướng. Vì dinh Norodom còn do Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely đang sử dụng, nên dinh trở thành dinh Thủ tướng tạm thời từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 7 tháng 9 năm 1954. Dinh được Quốc trưởng Bảo Đại đặt cho tên mới là dinh Gia Long. Con đường La Grandìere trước mặt cũng được đổi tên thành đường Gia Long.
Từ năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị hư hại, tổng thống Ngô Đình Diệm dời phủ tổng thống sang đây và ở đây cho đến ngày bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963.
Trong thời gian 1964–1965, dinh được dùng làm dinh Quốc trưởng. Ngày 31 tháng 10 năm 1966, khi dinh Độc Lập mới được xây lại xong, tòa nhà này được dùng làm trụ sở của Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau 1975, tòa nhà tạm thời không dùng cho mục đích cụ thể nào. Ngày 12 tháng 8 năm 1978, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định sử dụng tòa nhà này làm Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 13 tháng 12 năm 1999 thì đổi tên thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay. Đông Kha
https://baomoi.com
No comments:
Post a Comment