Thuốc Lào Trong Tù "Học Tập Cải Tạo"
Nguyễn Thừa Bình
Tôi thường nghe nói,
người miền Nam hút thuốc điếu, người miền Trung hút thuốc vấn, và người miền
Bắc hút thuốc Lào. Tôi lớn lên và có trí hiểu biết một chút từ những năm 1950,
1960 trở về sau nầy thì đúng là người miền Trung hút thuốc vấn, người miền Nam
hút thuốc điếu thiệt, nhưng người miền Bắc đang ở trong Nam, tôi hiếm thấy ai
hút thuốc lào. Thời đó cho đến trước 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà Việt Cộng
nghèo đói ngoài Bắc tràn vào trong Nam cướp của, giết người gọi là Giải Phóng tôi
đâu có thấy ai hút thuốc lào bao giờ?
hút thuốc vấn
Ở Phan Thiết, nơi trộn
trạo giữa hai miền Trung và miền Nam của nước Việt Nam hình cong chữ S, tôi
thấy người ta vấn, se thuốc rê làm thuốc vấn, thuốc điếu mà hút. Hút còn dư quý
cụ già nhứt định không bỏ đi, lại ịn vào cái cột nhà để dành cho đủ nhiều mà
vấn hay se lại điếu thuốc khác. Sau khi bắt đầu đời tù “học tập cải tạo” ngày
27 tháng 6 năm 1975 tại Biên Hòa trở đi, anh em tù nào đã ghiền hút thuốc lá
trước đó thì không ai lại không biết huơng vị ngọt ngào, đắng cay của thuốc lào
qua hình dáng của cái điếu cày “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”.
Thuốc lá nói chung cả
thuốc lào được gọi là tương tư thảo vì một khi đã ghiền rồi thì đố mà bỏ đi dễ
dàng cho được. Tôi bị bệnh suyễn nặng, năm 1992 biết sẽ phải khám phổi để đi HO
14 qua Mỹ, bác sĩ khuyên phải bỏ thuốc. Vậy mà tôi có bỏ đâu, vì không hút thì
nhớ, thì thèm… cứ hút lai rai, cứ hút dài dài. Vào tù “học tập cải tạo” tại
Trại An Dưỡng Biên Hòa, ban đầu anh em vẫn nhín hút Capstan, Ruby, Bastos Xanh,
Bastos Ðỏ, chưa thấy ai ngậm Mai, ÐaLat, Sa Pa, Cửu Long, Ðồ Sơn, Tam Ðảo… của
Việt Cộng hút khét họng, thúi miệng; nói gì đến thuốc lào của mấy nhóc “bộ đội”
khố rách áo ôm ngoài Bắc đem vào. Thời gian phỉnh gạt 10 ngày qua đi, đời tù “học
tập cải tạo” cái gì cũng hết, cũng không có, ngay cả cái ăn, cái mặc! Thuốc lào
ra đời. Những anh tù lần hồi đổi chác áo quần đem theo mặc và vài thứ vật dụng
đem theo dùng cho những tên cán bộ, những tên “bộ đội” miệng còn hôi mùi rừng
rú và nông trường nghèo khốn ngoài Bắc để lấy ít thức ăn cho đỡ đói, lấy mấy
bánh thuốc lào hút qua cơn ghiền chết điếng. Từ đây đã nghe tiếng rít của hút
thuốc lào. Cũng từ đây hút thuốc lào đã xảy ra nhiều tai nạn thảm thương tội
biết chừng nào cho những người tù một thời hiên ngang tay súng diệt thù trên
khắp nẻo đường quê hương.
Cụ già hút điếu cày
Năm đó, từ Noël 1975 cho
đến Tết Nguyên Ðán 31 tháng 1 năm Bính Thìn 1976 sao lạnh dữ! Không ai còn một
điếu Capstan, Ruby, Bastos Xanh, Bastos Ðỏ hay ngay cả các loại thuốc chằn ăn
trăn quấn Mai, DaLat, hoặc quá tệ đi nữa thuốc rê hạng bét… cũng không có mà
hút cho ấm bụng ấm dạ một chút. Thôi thì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, anh
em tập tành hít đỡ thuốc lào, để mấy cọng tương tư thảo khỏi hành hạ nhớ nhơ
thương thương mà chết điếng cả con người. Rồi một sáng trước khi đi “lao động
là vinh quang”, một anh đã phải khiêng xuống trạm xá. Mấy ngày sau nghe nói,
anh ta đã bị cưa đi một cánh tay phải ở bệnh viện huyện Công Thanh. Anh là phế
nhân? Phế nhân trong tù “học tập cải tạo” cũng phải “mình vì mọi người” mà lao
động như ai. Ðược biết, anh ta “tranh thủ”, “khẩn trương” chạy xuống nhà bếp
“phi” một “bi” cho “phê” cái bụng lạnh ngắt trước khi vác cuốc ra rừng. Và ảnh
“phê” hết sức là “phê” thiệt, chẳng biết trời trăng mây nước gì ráo, chống tay
vào chảo đụn có nước đang sôi sùng sục mà sức không đủ kéo tay ra, miệng không
đủ sức la to cầu cứu. May có mấy “anh nuôi” quanh quẩn ở đó lôi ra, kéo ra và
tri hô lên không thì cũng có thể chết oan, chết uổng lắm. Tôi không phải dân
ghiền thuốc lá cho lắm, nhưng trên môi thỉnh thoảng cũng phải phì phà một, hai
điếu mới được, không thì cũng thèm thuồng. Tương tư thảo là vậy. Một sáng, chắc
ngày cận Tết, anh Ðại Úy Nhuận, cựu SVSQ Khóa 3 Học Viện CSQG, người Bắc cùng
tổ, cùng đội, cùng “lán” 27 là “dân chơi” thuốc lào từ lâu, mời: “hút một điếu
thuốc lào cho khuây khỏa ông bạn”. Anh ta đưa cho tôi một cái ống tre to như
ống thổi lửa, trong có một ít nước lỏng bỏng, và trên có một cái ống nhỏ đút
thông vào. Một tay anh vân vê mấy cọng thuốc tròn lại, rồi nhét nó vào cái ống
nhỏ đó; một tay anh mồi lửa lên từ một que tre chẻ mỏng và châm vào, bảo: “hít
mạnh vào, ém hơi lại, nín thở”. Làm theo, tôi hít dài thật dài hơi vào cái lòng
ngực, giữ nó lại ở đó cho lâu không thèm thở ra. Tá hỏa tam tinh, đất trời bay
nhảy ngã nghiêng, tôi lơ mơ lờ mờ hết biết gì, ngã sấp xuống luống nước trồng
cây bạc hà giữa hai “lán” 26 và 27. May ông Nhuận lanh tay với hai ông bạn tù
nữa kịp kéo lên và giữ lại trong nguời, tôi từ từ tỉnh lại, không thì bị chết,
mà chết đuối trên cạn mới là kỳ. Về sau tôi mới biết, cái ống tre đó người ta
gọi là cái “điếu cày”; que tre chẻ mỏng làm lửa châm hút đó, người ta gọi là
cái “đóm”, cái ống nhỏ và cụt đút thông vào cái lỗ ống tre đó, người ta gọi là
cái “nõ điếu”, mấy cọng tương tư thảo được vê tròn nhét vào cái nõ điếu, mấy
anh em tù “học tập cải tạo” đặt tên là “bi”, bi thuốc lào. “Bi”, chắc tại vì
mấy cọng thuốc lào tròn vo như một viên bi hồi nhỏ mấy đứa con nít thường chơi?
Trước đó trong Nam, thuốc lào như trên đã nói, tôi hiếm thấy ai hút.
Tiệm thuốc lào Thiên Phát 888
Khoảng những năm 1964
đến năm 1967, hai con đường tôi thường tới thăm hai người bạn gái là đường Phạm
Hồng Thái, khúc gần Ngả Ba Ông Tạ và Chi Lăng, khúc Võ Di Nguy quẹo phải qua,
tính từ Cầu Kiệu xuống, tôi thấy có tấm bảng quảng cáo Thuốc Lào 888 Vĩnh Phát.
Ðặc biệt tấm bảng quảng cáo thuốc lào nơi đại lộ Chi Lăng có vẽ hình một ông
già mặc áo dài đen, đầu đội khăn đống đen, tay cầm ống hút gắn vào một cái
chén, và kế bên có câu thơ “Ông đây đã bỏ thuốc lào. Thấy 3 số 8 lại đào điếu
lên”. Sau nầy tôi mới biết cái ống hút đó người ta gọi là “cái se” và cái chén
hút đó là “cái điếu bát”. Thuốc lào chỉ có người Bắc hút và ngày di cư vào Nam
chắc đã đem theo, mà chúng ta có thuốc lào Cái Sắn, thuốc lào Gò Vấp, thuốc lào
3 số 8 Phú Nhuận, cả thuốc lào 3 số 9, và 3 số 5 nữa…? Anh em dù ngoài Bắc di
cư vào Nam còn rất nhỏ, đâu có lưu tâm, lưu ý gì và cũng đâu thấy hút xách gì
mà sao nói về thuốc lào bây giờ trong tù rành rọt dữ. Nào là thuốc lào ngon có
tiếng là thuốc lào Tiên Lãng, thuốc lào Vĩnh Bảo ở Hải Phòng hay thuốc lào
Quảng Xương ở Thanh Hóa. Chưa hết, từ đâu những câu thơ nói về thuốc lào, anh
em khề khà đọc ra rào rào, nghe ghiền cái lỗ tai. Nầy nhé “một thằng hút bốn
thằng say. Hai thằng châm đóm ngã lăn quay”, nào nhé “thuốc lào chồng hút vợ
say, thằng con châm điếu lăn quay ra nhà” nữa nhé “nhớ ai như nhớ thuốc lào. Ðã
chôn điếu xuống lại đào điếu lên”…
Chừng một năm sau, một
đêm hạ tuần tháng 6 năm 1976, dưới ánh đèn leo lét, vàng vọt sương khuya trên
bến Tân Cảng dưới dốc cầu Xa Lộ Biên Hòa chờ lên tàu ra Bắc, tôi thấy nhiều cái
điếu cày dài, ngắn, to, nhỏ đủ màu, đủ kiểu. Chúng được treo lủng lẳng đằng sau
những cái túi hành trang xơ xác chắp vá bằng những bao cát luộm thuộm nghèo tận
mạng hay được cầm nơi tay cằn cỗi, gầy guộc của những anh em bạn tù không án,
không biết ngày về vật vờ như những bóng ma. Ðiếu cày, từ đấy về sau, một số
anh em giữ nó như giữ tình một người bạn tri kỷ, một quý vật bất ly thân đời tù
eo sèo rày đây mai đó sống chết không biết lúc nào! Một số chúng tôi được đưa
đến trại 4 ở xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái của đoàn 776 thuộc Bộ
Quốc Phòng. Ở đây hay ở đâu chúng tôi tới đều là những nơi rừng sâu núi thẩm để
phá núi, lấp sông… Bao nhiêu năm tù đi nữa, chúng tôi cũng ăn dù ăn toàn là củ
khoai mì luộc, hay bột lúa mì làm ra cái “bánh xe lãng tử” lúc nào cũng đói meo
như chưa ăn thứ gì vào bụng và mặc thì bao giờ cũng thịt da trơ ra với trời đất
buốt đau như cắt, như xé bất kể Hè, Ðông. Mấy ngày đầu “định cư” trên xứ Bắc
nghèo mạt rệp, anh em còn phì phà điếu thuốc Sông Cầu trại vừa mới phát cho.
Lần hồi âm âm u u vượt từ rừng núi nầy tới rừng núi kia khắp các tỉnh miền
Thượng Du, Trung Du đời người tù “học tập cải tạo” với hằng trăm, hằng ngàn lần
“biên chế”, “chuyển trại”. Sức cùng, lực kiệt, người tù “học tập cải tạo” rãi
xác chết khắp chốn hoang vu rừng thiêng nước độc, sơn lâm chướng khí vùng Yên
Bái, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Vĩnh Phú, Thanh Hóa…
Ðời người tù khổ sai
biệt xứ không còn gì ngoài cái chết chực chờ, hút thuốc cũng là một nhu cầu
“cho quên đi” cái đói hành hạ ngày đêm quanh năm suốt tháng; cũng “cho quên đi”
nỗi đau trong lòng người tù sa cơ thất thế sống chết bất kể lúc nào? Những
người bạn tôi, tôi thấy đã thẩn thơ thơ thẩn vì thiếu thuốc hút, không nói
những thứ quen thuộc Pall Mall, Marlboro của Mỹ làm gì có; Capstan, Ruby,
Bastos làm gì còn… của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta trước đó, mà mấy thứ hạ đẳng
Cửu Long, Ðồ Sơn, Sa Pa, Tam Ðảo… của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam lạc hậu hút khét lẹt cũng không có bao nhiêu mà hút tạm đỡ ghiền. Nhiều anh
bạn đã vấn lại thành điếu những thứ lá cây rừng, lá cỏ dại không biết tên là gì
mà hút, mà sặc, mà quăng đi không kịp. Từ đấy trở đi, đủ loại, “cái gì của
người tù cũng quý” được len lén tung ra “thương mại” với người dân khố rách áo
ôm sống lơ thơ cuộc đời lam lũ nơi khỉ ho cò gáy. Họ “liên hệ” với nhau, ở đây
tôi chỉ nói tới thuốc hút, chính là thuôc lào mà thôi. Trong Biên Hòa, tôi đã
nghe anh em truyền nhau thuốc lào Tiên Lãng, thuốc lào Vĩnh Bảo, thuốc lào An
Lão của Hải Phòng là ngon nhất. Những nông dân, tiều phu sống đời cần cù đầu
tắt mặt tối và chờ ngày buông tay. Họ trao mấy bánh thuốc lào và nói “thuốc lào
Quảng Xương ngon lắm” và lấy về những áo, quần, dây nịt, giày, dép… chắc cả đời
người họ chưa từng thấy chứ nói gì tới mang với mặc. Tội nghiệp! Thuốc lào
trong các trại “học tập cải tạo” được anh em tù chia chác nhau mà hút. Chia
chác qua các hình thức tình nghĩa anh em với nhau cũng có; qua việc đổi chác
phần ăn sáng là thường. Ðã nói ghiền thì ghiền nào cũng “từ chết tới bị
thương”. Có người đói thân tàn ma dại, vậy mà cứ ráng nhịn ăn sáng đổi lấy vài
“bi” thuốc lào “kéo” cho đời “tới đâu thì tới”. Các bạn bè tôi đua nhau hút
thuốc lào “một thằng hút bốn thằng say”; đua nhau làm ra nhiều cái điếu cày
không cái nào giống cái nào. Cái mà anh em khoe nhau kèm chút tự đắc là cái nõ
điếu. Cái nõ điếu làm bằng đá non màu xám đen dưới các suối không dễ tìm đâu
cũng có quanh trại tù. Anh em đem về cắt, mài, dũa, khoét lỗ làm sao kêu thật
to, thật thánh thót khi “rít” vào ở xa cũng nghe như tiếng chim họa mi đâu đây
hót sáng bình minh.
Ở đây cũng phải nói tới
ông bạn Huỳnh Ngọc Thuận của tôi. Ổng với tôi Khóa 2 Học Viện CSQG ra, đi tù
“học tập cải tạo” từ Biên Hòa ra Yên Bái, lên Hoàng Liên Sơn, về Lào Cai, xuống
Vĩnh Phú… làm cái nõ điếu “đạt tiêu chuẩn” thì không thua ai? Ði “lao động là
vinh quang”, người ta nghỉ giải lao trưa thì ổng xuống suối tìm đá non. Chiều
“lao động là vinh quang” về, ổng mằn mò làm nõ điếu. Nhờ sáng trí, khéo tay và
cộng thêm cần cù gốc gác người nông dân xứ Bình Ðiền, Bình Chánh, tôi nghĩ, khó
có ai có thể làm nõ điếu hơn anh ta cho được. Cái điếu cày của Thuận một khi mà
rít lên một hơi vào trời đêm thanh vắng nghe thánh thót chi lạ, làm ai ai dân
hút thuốc lào cũng thèm mà mò tới trầm trồ. Chắc ghiền hút mới ghiền làm điếu
cày, Thuận cũng đã từng bỏ ăn sáng “đổi chác” thuốc lào với anh em trong trại;
và tay nầy cũng là hạng liều bạc mạng, chắc cũng đã từng “liên hệ” với người
Tày, Mán, Mèo ở đâu đó để có thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo hay loại gì gì đó mà
hút? Cái điếu cày trong tù “học tập cải tạo” không chỉ để hút thuốc lào mà còn
để “kéo” thuốc rê, “rít” thuốc điếu cũng “phê” dữ. Những điếu Ðồ Sơn, Sa Pa,
Thu Bồn, Sông Cầu, Phù Ðổng, Tam Thanh… lâu lâu trại mới phát một lần, anh em
tù cắt ngắn ra làm 5, làm 6 bỏ vào nõ điếu hút cho được nhiều lần. Hút như vậy
cũng còn “ngon” hơn nhiều hút mấy lá cây rừng vô danh có ngày chết không kịp
ngáp.Hút như vậy lại nhớ đến anh Triết,
Triết Ðiếc 101 ở Phân Trại 4 thuộc Trại Trung Ương Số 1 Lào Cai cắt cái “bánh
xe lãng tử” nhỏ chút xíu ra làm trăm hột lựu để tối vào “đong đưa võng buồn” từ
từ ăn từng hột một cho lâu hết, nhưng đói vẫn cứ đói chết cha.
Thuốc lào hút đến như vậy mới là “phê”
Cũng ở đây, tôi lại nhớ
đến ông Ðại Úy Chu Sỹ Lương ở Ðội Gạch, đội của ông Phan Già làm Ðội Trưởng và
Ông Linh Phòng 2 làm Ðội Phó “lục đục suốt đêm”. “Lục đục suốt đêm” vì đói quá
không ngủ được. Ổng cứ đi tới đi lui, cứ bò qua lăn lại làm sao mà đổ hết nước
trong điếu cày chảy qua chỗ tôi nằm kế bên, chảy xuống mấy người nằm dưới “thúi
chịu không nổi”. Giận nhau, anh em chửi thề oang oang như phường chợ búa của
mấy bà đi chợ. Phải biết, cái thứ nước điếu cày hút lâu ngày mà lênh láng ra
ngoài rồi thì dù đói thấy trời thấy đất, thấy cả ông bà ông vãi đi nữa dẫu đang
có miếng ăn ngon biết chừng nào cũng chẳng màng mà lo bỏ chạy xa chừng nào tốt
chừng nấy. Cái thúi của nước thuốc lào là cái thúi “điếc con ráy” ăn dầm nằm dề
trên mền, trong chiếu, nơi gối… nhiều ngày nhiều đêm làm người ta mất ăn mất
ngủ điên cả cái đầu. Còn vụ tai nạn hút thuốc lào trong các trại tù “học tập
cải tạo” thì nhiều làm sao kể cho hết? Có anh hút đã quá mà lăn cù cù xuống
suối vào mùa Ðông mưa phùn giá rét, lóp ngóp không bò lên được. Có anh hút
trong bếp nấu ăn của trại, tay nắm thành lò đỏ om, bàn tay trở thành “nhất
dương chỉ”. Tôi nhớ một lần là lần đầu tiên ở trại 9 của Liên Trại I dưới dốc
Cây Ða, trại phát mỗi người 1 bịch nhỏ thuốc lào An Thái, anh em hút gần như cả
trại đều say cách nầy cách khác, nặng nhẹ khác nhau. Anh Ấn là người đàn rất
hay những lần văn nghệ được anh em mời hút một điếu. Ấn chỉ kịp hít một hơi dài
rồi té lăn ra, miệng méo xẹo sùi nước bọt, mắt trợn trừng không đong đưa con
ngươi, mình mẩy cứng đơ như người chờ chết. Ai cũng sợ, sợ ảnh chết oan chết
ức, chết bỏ cô vợ trẻ và hai đứa con dại mà mới ngày hôm qua ảnh vừa khóc vừa
kể. Cùng hôm đó, có rất nhiều anh em ở đội nầy, đội khác đều biết thế nào là
say thuốc lào ghê quá! Thật ra thuốc lào An Thái chẳng “nặng” là bao, chẳng
“ngon” là bao, chẳng là “cái thá gì” so với thuốc lào Cái Sắn, Gò Vấp, nói gì 3
số 8 Phú Nhuận trong Nam. Vì từ trước tới lúc bấy giờ, đâu có thuốc lào mà hút
cho quen “đô”, nên bị say có thể chết là đương nhiên.
Cái điếu cày tiêu biểu
Một hôm mùa Ðông lạnh
quá, anh em chen nhau chùm nhum bên bếp lửa nấu nước nóng cho đội uống, có đến
3 anh cùng say một lượt, rủ nhau té vào bếp lửa đang hừng hực cháy đỏ. Một anh
bị cháy trụi tóc, trụi lông mày; một anh được anh em kịp giựt người ra, nhưng
cái chưn như động kinh dũi thẳng vào bếp mà thành “xi cờ que”; một anh 2 tay
chụp cái thùng nước đang sôi trên bếp, hai tay phỏng mấy tháng đau khổ mới chịu
lành. Ôi thuốc lào “một thằng hút bốn thằng say”! Vì như là một nhu cầu hết sức
cấp bách, có người phải nhịn ăn để hút là đổi phần ăn sáng của mình để lấy vài
“bi” thuốc lào mà hút cho lâng lâng đời “còn một chút gì để nhớ để quên”.
Khoảng đầu năm 1977, anh Trầm Hữu Phước là Phước Lùn, người không biết hút
thuốc gì hết trơn đã thêm phần ăn no nhờ đổi chác mấy “bi” thuốc lào lấy phần
ăn sáng của người ta. Tôi không nhớ ảnh làm sao lại có được mấy bánh thuốc lào
đen 3 số 8 Vĩnh Phát trong Nam gởi ra? “Cứ 3 “bi” là một phần ăn sáng”, ảnh rao
đổi như vậy. Có người cũng bấm bụng nhịn ăn mà đổi. Nhưng nhịn tới mức đổi chác
làm sao một vừa hai phải, chứ “cắt cổ” như vậy thì cũng có lúc không ai còn sức
mà đổi. Lúc sau nầy trại phát thuốc lào loại tệ nhất hạng, một loại thuốc lào
như một loại cỏ gì gì đó nhiều quá đến nỗi không có dụng cụ mà đựng cho hết,
được anh em gọi là “thuốc lào thau”. “Thuốc lào thau” đã giết chết mộng làm ăn
của Trầm Hữu Phước không còn đổi chác được nữa. Không dại cho ai hết, cũng
không ngu đổi “rẻ như cho”, Phước bắt đầu hút thuốc lào say 3 số 8 đó. Hút như
Phước là “kéo” cho thật lâu, “rít” cho thật dài và “ém” cho thật kỹ đến nổi
không còn gì cho ai hưởng “sái”. Khi hút hết thuốc lào say mình đã tính kế “đầu
tư” cũng là lúc Trầm Hữu Phước của ta thành dân ghiền thuốc lào chính tông. Là
dân ghiền thuốc lào hơn ai hết, anh ta trở thành người nhịn ăn mà đổi lấy thuốc
lào, có khi không được lào say 3 số 8, miệng cứ chửi liền liền “đ. má, đổi gì
đổi cắt cổ”, mà ảnh đã quên, ảnh cũng là dân “cắt cổ” thứ thiệt, cắt cổ hơn ai
hết.
Chừng năm 1981 ở trại tù
Thanh Lâm thuộc tỉnh Thanh Hóa, tôi lại nhớ đến ông bạn lớn hơn tôi vài tuổi
tên Tĩnh, nghe nói là chủ tiệm may Cao Minh ở Tân Ðịnh? Tiệm may Cao Minh nổi
tiếng ngày xưa, nằm sát bên tiệm chè Hiễn Khánh và rạp Casino Ðakao trên đường
Ðinh Tiên Hoàng. Một sáng sắp sửa đi “lao động là vinh quang”, Tĩnh làm một
“bi” thuốc lào lấy tinh thần. “Rít” làm sao, “ém” làm sao mà “phê” đến nỗi anh
ta từ chỗ nằm trên cao ngã phịch xuống đất nằm một đống, miệng tại vì thuốc lào
tê mê châu thân làm “cấm khẩu” không còn sức đâu mà la làng. Bây giờ không biết
chưn cẳng anh Tĩnh có sao không, chứ hồi đó thì nghe nói gãy? Nói tới đây lại
ngậm ngùi nghĩ ngay đến anh bạn cùng Khóa 2 Học Viện CSQG của tôi tên Lê Quang
Vĩnh là Vĩnh Ðen đã chết vì thuốc lào tại trại Kinh Làng Thứ Bảy hay Thứ Bảy
Kinh Làng nói chung cũng là vùng Miệt Thứ tỉnh Rạch Giá cũ và tỉnh Kiên Giang
sau năm 1976. Ngày mai thứ Bảy vợ sẽ vào “thăm nuôi”, đêm đó thứ Sáu, Vĩnh lén
ra các đìa quanh trại câu cá. Sáng ra, ngồi hong bên bếp lửa hồng cho ấm áp và
“kéo” một “bi” thuốc lào không biết là lào Cái Sắn hay lào 3 số 8 để lấy tinh
thần đón vợ ở lại hai ngày thứ Bảy và Chủ Nhật. Vợ chồng đã không gặp nhau cũng
chỉ vì một “bi” thuốc lào. Vĩnh chết ngay tức thì khi mà lòng vẫn còn nghĩ chút
nữa đây gặp vợ mà nụ cười chưa kịp tắt và các con cá lóc vẫn cứ lóc rồn rột
trong cái đụt nằm kế bên…! Trước đó cũng có ở đây, một tù “học tập cải tạo” hút
thuốc lào “chồng hút vợ say” đã té nhào vào chảo đụn mà bị thương một tay tưởng
phải cưa cụt và bị mù một mắt suốt đời như tướng độc nhản Moshe Dayan của Do
Thái.
Cũng đã năm chục năm,
sáu chục năm nay rồi tôi cứ thường được nghe người ta nói “từ chết tới bị
thương” để diễn tả một sự việc mà dính dáng vào thế nào cũng bị tai họa, bị
thiệt hại, bị nguy hiểm. Nghe ra kỳ kỳ lạ lạ nhỉ, tại sao không từ bị thương
tới chết? Chắc có một hàm ý gì mà mình chưa nghĩ ra chăng, nếu không sao vẫn
truyền miệng nhau đến bây giờ? Tôi nghĩ, cái “chết” nầy chắc không phải là cái
chết của sự tắt thở “lên men thối”, mà cái chết nầy là cái sa đà “chết mê chết
mệt” xa thì nhớ, vắng thì buồn, nghĩ tới thì quây quắc không chịu nỗi. “Chết mê
chết mệt” như yêu say đắm một người, như ghiền thuốc phiện, như mê bài bạc… thì
chắc chắn trước sau gì cũng “bị thương”. “Bị thương” là thân tàn ma dại, tán
gia bại sản, chết cuộc đời và cả con người. Những người bạn tôi đó không may
vào nơi gió cát phong trần “học tập cải tạo”của bọn ngụy quyền Việt Cộng trả
thù, để phải “chết mê chết mệt” thuốc lào mà có người chết thảm chết thương; có
người tàn tật phế nhân; có người đói tàn canh vẫn cứ đổi phần ăn sáng lấy 3
“bi” thuốc lào 3 số 8 mà hút. Chiến trường giữa lòng bom đạn, các anh đã không
Vị Quốc Vong Thân “trở về bằng chiếc băng ca trên trực thăng sơn màu tang
trắng”, và các anh cũng không “trở về trên đôi nạng gỗ, … bại tướng cụt chân.
Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân bên người yêu tật nguyền chai đá…” Ðau, đau hết
sức là đau! Một đời người không qua số phận? Số phận cá nhân của chúng ta không
nằm ngoài tiền đồ của đất nước, của dân tộc không may đang bị bọn Cộng Sản Việt
Nam quỷ yêu lộng hành, tác quái tàn hại. Hồn thiêng sông núi, anh linh tiền
nhân… một ngày không xa nữa chắc chắn sẽ tru di bọn chúng Nguyễn Phú Trọng,
Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Ðức Mạnh, Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu và
đồng bọn Việt Cộng… như những tên tội đồ dân tộc./.
Tháng Tám Năm Hai Ngàn Mười Lăm
NGUYỄN THỪA BÌNH